quả macadamia Không có dấu hiệu nào là đặc hiệu cho bệnh tim, việc đánh gia tùy thuộc tham gia toàn thể bệnh cảnh lâm sàng và vài trường hợp tùy thuộc tham gia xét nghiệm chẩn đoán
Các triệu chứng thường gặp gỡ
Không thở được
Không thở được được phát khởi hoặc nặng lên bởi gắng sức và gây ra tăng sức ép nhĩ trái và tĩnh mạch phổi hoặc giảm ôxy máu.
Tăng sức ép nhĩ trái và tĩnh mạch phổi thường gặp nhất là rối loàn công dụng tâm trương thất trái (do phì đại, xơ hóa hoặc bệnh màng ngoài tim) hoặc bít tắc van gây ra. Đợt phát khởi hoặc nặng lên của tăng sức ép nhĩ trái có thể dẫn đến phù phổi. Giảm ooxxy máu có thể do phù phổi hoặc luồng thông trong tim.
Nghẹt thở phải được xác định bằng chừng mực hoạt động gây ra nó. Khó thở cũng là một triệu chứng thường gặp trong các bệnh phổi và không dễ dàng có thể phân biệt được bệnh sinh, nghẹt thở cũng có thể gặp ở người ít đi lại hoặc người béo, người trong trạng thái run sợ, thiếu máu và phổ quát bệnh khác.
Khó thở khi nằm là do sự tăng thể tích máu trung ương. Không thở được khi nằm cũng có thể do các bệnh phổi và bụ bẫm gây ra.
Không thở được kịch phát đêm hôm sẽ giảm nhẹ bằng cách thức ngồi hoặc đứng lên, triệu chứng này thường đặc hiệu hơn trong các bệnh tim.
Đau ngực
Đau ngực có thể xẩy ra do một bệnh phổi hoặc một bệnh xương, bệnh thực quản hoặc các bệnh con đường tiêu hóa, kích thich rễ dây thàn kinh cổ hủ ngực , hoặc do hiện trạng thấp thỏm cũng như đa dạng bệnh tim mạch gây nên.
Cội nguồn thường gặp gỡ nhất của đau ngực do tim là thiếu máu cơ tim tổng thể. Đau thường được mô tả là âm ỉ, nhức nhối hoặc như cảm giác ép vào, siết chặt, thắt chặt hoặc ngột ngạt hơn là đau như dao đâm hoặc co thắt lại, và nó thường được nhận thức như một cảm giác bứt rứt hơn là đau. Đau do thiếu máu toàn thể thường giảm đi trong vòng 30 phút, nhưng nó có thể kéo dài hơn.
Những cơn đau kéo dài thường tương ứng với nhồi máu cơ tim, đau thường đương nhiên cảm giác bứt rứt hoặc run sợ. Vị trí đau thường ở sau xương ức hoặc vùng trước tim bên trái. Mặc dầu đau có thể lan tới hoặc khu trú ở vùng hầu họng, hàm dưới, bả vai, mặt trong cánh tay, vùng bụng trên hoặc lưng, nhưng nó gần như cũng bao hàm cả vùng xương ức. Đau do thiếu máu toàn cục thường do gắng công, nhiệt độ lạnh, sau bữa ăn, stress hoặc hòa hợp các yếu tố này thúc đẩy và thường giảm đi khi nghỉ ngơi. Đau không liên quan tới tư thế hoặc hô hấp và thường không hiện ra khi sờ nắn ngực. Trong nhồi máu cơ tim, một yếu tố thúc đẩy thường không roc rệt.
Phì đại thất trái hoặc bệnh van động mạch chủ cũng có thể nảy sinh đau do thiếu máu hoặc đau ít điển hình hơn. Viêm cơ tim, bệnh cơ tim và sa van hai lá thường cấu kết với đau ngực không diển hình. Viêm màng ngoài tim có thể gây ra đau nhưng nó đổi mới theo tư thế và hô hấp. ăn gì để ngăn ngừa bệnh tim Phình tách động mạch chủ gây đau như xé lồng ngực một cách thức bỗng ngột và thường lan ra sau lưng.
Bối rối, choáng và chết giả
Nhận thấy nhịp đập của tim có thể là hiện tượng chung hoặc có thể phản chiếu tăng cung lượng tim hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim ở những bệnh nhân với rộng rãi trạng thái bệnh ngoài tim (gắng sức, nhiễm độc giáp, thiếu máu, lúng túng...). Nó cũng có thể do các bệnh tim mạch khiến cho tăng thể tích nhát bóp (hở van tim, nhịp lừ đừ) hoặc có thể là tín hiệu của rối loàn nhịp tim. Ngoại tâm thu thất có thể được cảm thất như nhát đập ngoại lai hoặc nhát dancing cóc. Tim với tốc độ cao kịch phát trên thất hoặc thất bệnh nhân có thể cảm thấy đập hoặc rung rất với tốc độ cao, đều hoặc không đều. Tất nhiên nhiều bệnh nhân không thấy biểu lộ gì cả.
Ví như như nhịp tim bất thường liên minh giảm đáng kể áp huyết và cung lượng tim, thì nó có thể, khác biệt là phong thái đứng thẳng, khiến tác động đến dòng máu lên não, gây choáng váng, mờ mắt, mất ý thức (ngất) hoặc các triệu chứng khác.
Bất tỉnh do tim thường gặp gỡ nhất là do ngừng nút xoang hoặc bloc tuyến đường ra nút xoang, bloc nhĩ thất, hoặc tim với tốc độ cao thất hoặc rung thất. Bất tỉnh nhân sự có thể có vài tín hiệu tiền triệu và có thể gây ra chấn thương. Việc không có triệu chứng báo trước giúp phân biệt chết giả do tim (Cơn Adams - Stockes) với ngất do mạch tâm thần phế vị, hạ áp huyết tư thế hoặc cơn động kinh. Mặc dù thương bình phục ngay, một số bệnh nhân có thể có những động tác giống như trong cơn động kinh. Bệnh van động mạch chủ và bệnh tim phì đại tắc nghẽn cũng có thể gây chết giả và thường xẩy ra khi gắng sức hoặc sau gắng sức. Một cách thức bất tỉnh khác là chủ đề hấp dẫn sự lưu ý đáng kể trong những năm cách đây không lâu được gọi là bất tỉnh do tâm thần tim. Trong hội chứng này có sự tăng không thích hợp hoạt động phế truất vị ly tâm, thường do tăng kích thích tâm thần giao cảm của tim lúc trước. Song nó có thể xẩy ra đột nhiên ngột hệt nhau như bất tỉnh nhân sự do rối loạn nhịp tim.
Phù
Sự thu thập dịch dưới da sinh ra đầu tiên ở chi dưới ở những bệnh nhân chuyển động được hoặc ở vùng xương cùng của những người nằm liệt giường liệt chiếu. Trong bệnh tim, phù do tăng áp lực nhĩ phải gây ra. Suy tim phải thường nhất là do suy tim trái mặc dầu các dấu hiệu của suy tim phải có thẻ rõ rệt hơn. Các căn nguyên do suy tim khác của phù gồm bệnh màng ngoài tim, bệnh van tim bên phải và chứng tim phổi mạn. Phù cũng có thể do suy tĩnh mạch, hội chứng thận hư, xơ gan hoặc ứ dịch trước kỳ kinh nguyệt hoặc nó có thể tự phát. Suy tim phải nặng có thể gây ra cũ kĩ trướng, và gần như bao giờ cũng đi kèm với phù.
Phân loại công dụng bệnh tim
Hệ thống phân loại của Hội tim mạch new york thường được ứng dụng.
Các dấu hiệu bệnh tim
Dù rằng khám tim mạch thườn dồn vào một chỗ vào tim, nhưng các dấu hiệu ngoại biên cũng rất cần thiết.
Biểu lộ
Hình như các bệnh nhân tim trông có vẻ mạnh khỏe lúc nghỉ dưỡng, thì phổ thông bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp xuất hiện trong lúng túng và bồn chồn. Vã mồ hôi chứng tỏ hạ huyết áp hoặc hiện trạng cường giao cảm, như trong ép tim cấp, rối loạn nhịp nhanh hoặc nhồi máu cơ tim.
Các bệnh nhân suy tim ứ trệ nặng hoặc cung lượng tim thấp kéo dài có thể hình thành suy mòn.
Tím có thể là trung ương do mất bão hòa máu động mạch hoặc ngoại biên, phản chiếu sự tổn thương phân bố tới công ty của máu được bão hòa toàn vẹn trong tình trạng cung lượng tim thấp, đa hồng huyết cầu hoặc co thắt mạch ngoại biên. Tím trung ương có thể do phổi, suy tim trái hoặc shunt phải - trái gây ra. Tím do shunt phải - trái không được cải thiện khi tăng nồng độ ôxy trong khí hít tham gia.
Xanh tái thường chứng tỏ thiếu máu nhưng có thể là tín hiệu của cung lượng tim thấp.
Các dấu hiệu sống
Mặc dầu tần số tim bình thường thay đổi trong khoảng 50 - 100 lần/phút, cả nhịp chậm chạp hơn hay mau lẹ hơn có thể xẩy ra ở người phổ biến hoặc phản ảnh tình trạng ngoài tim như lo ngại, đau, công dụng của thuốc, bệnh tuyến giáp, bệnh phổi thiếu máu hoặc giảm thể tích máu.
Nếu như các triệu chứng hoặc sự ngờ vực lâm sàng được xác nhận, nên ghi điện tâm đồ để chẩn đoán rối loàn nhịp, rối loạn dẫn truyền hoặc các rối loàn khác.
Giới hạn huyết áp chung khá rộng, nhưng ngay cả ở những người không có triệu chứng cần bình chọn thêm và theo dõi những người này khi huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg hoặc trên 140 mmHg và huyết áp tâm trương trên 90 mmHg. Ban sơ huyết áp có thể giảm xuống nếu như như bệnh nhân được thư giãn và nghỉ dưỡng dễ chịu.
Nghẹt thở với tốc độ cao cũng không đặc hiệu nhưng bệnh phổi và suy tim nên được xem xét khi tần số hô hấp vượt quá 16 lần/phút dưới yếu tố kiện tầm thường. Thở chu kỳ (kiểu Cheynes- stockes) ít thấy trong suy tim nặng.
Mạch ngoại biên và sự đập của tĩnh mạch
Mạch ngoại biên giảm thường do bệnh xơ vữa động mạch ngoại biên gây ra và có thể tất nhiên tiếng đập khu trú. Khi thấy mạch đập mất bằng vận nên ngờ vực có hẹp eo động mạch chủ mà tin tức lúc trước cũng có thể có bổn phận. Mạch nẩy mạnh có thể chứng tỏ hở chủ, hẹp eo động mạch chủ, còn ống động mạch hoặc các hiện trạng khác có tăng thể tích nhát bóp. Mạch cảnh có giá trị giúp bình chọn sự tống máu của thất trái. Mạch đập chậm chạp trong hẹp chủ và chậm trễ phổ thông ( nhị đỉn có thể sờ được) thực phẩm tốt cho tim mạch trong hẹp chủ và hở chủ hỗn hợp hoặc bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn. Mạch nghịch thường (giảm huyết áp tâm thu trong thì hít vào trên 10 mmHg) là dấu hiệu có trị giá trong ép tim, dù rằng nó cũng xẩy ra trong hen truất phế quản và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
Tĩnh mạc cảnh đập cho phép nhìn thấu vào bên trong nhĩ trái. Nó đưa ra danh sách: 1- Sức ép tĩnh mạch trọng tâm cao nếu có trên 3 cm thẳng đứng trên góc Louis, 2- Thể tích máu trung ương cao nếu có tăng trên 1cm khi ấn vào hạn sườn phải 30 giây, 3- Tắc nghẽn van 3 lá hoặc tĩnh mạch phổi giả dụ như có sóng cv lớn. Hở van 3 lá có thể liên minh với gan đập. Phân ly nhĩ thất do bloc dẫn truyền hoặc rối loàn nhịp thất có thể được ghi nhận khi có sóng a đại bác cách thức hồi.
Khám phổi
Nghe thấy ran ở hai đáy phổi là dấu hiệu của suy tim ứ trệ, nhưng cũng có thể do bệnh phổi khu trú gây ra. Ran tít và ran ngáy chứng tỏ bệnh phổi tắc nghẽn, nhưng cũng có thể xẩy ra do suy tim trái. Tràn dịch màng phổi với gõ đục hai đáy phổi và rì rào phế nang giảm cũng thường gặp trong suy tim ứ trệ.
Mạch đập vùng trước tim
Sự gồ ghề cạnh ức thường chứng tỏ phì đại thất trái, tăng áp động mạch phổi (tâm thu > 50 mmHg) hoặc nhĩ trái to. Sự đập của mạch phổi cũng có thể trông thấy. Xung động mỏm thất trái nếu như kéo dài và rộng, chứng tỏ phì đại hoặc rối loàn chức năng tim. Nếu như như nó rất rõ rệt nhưng không kéo dài, xung động mỏm có thể chứng tỏ quá chuyên chở thể tích hoặc cung lượng tim cao. Sự đập ở vùng trước tim thêm tham gia có thể phản ảnh những thất thường co bóp thất trái toàn cục.
Các tiếng tim và tiếng thổi
Nghe tim có thể chẩn đoán được hoặc giúp cho chẩn đoán phổ biến bệnh tim, kể cả suy tim.
Tiếng tim thứ nhất có thể yếu trong rối loàn chức năng thất trái nặng, hoặc mạnh trong hẹp nhì lá hoặc PR ngắn. Tiếng thứ hai thường tách đôi với nhì nhân tố (chủ trước phổi) và có thể phân tích rõ rệt hơn trong thì hít vào. Sự tách đôi của tiếng thứ nhị nhất định trong thông liên nhĩ, và rộng trong bloc nhánh phải và mất hoặc đảo ngược (tách đôi nghịch thường ) trong hẹp chủ, suy thất trái hay bloc nhánh trái. Với sự tách đôi thông thường, yếu tố P2 mạnh là tín hiệu quan trọng của tăng áp động mạch phổi.
Tiếng tim thứ ba và thứ tư (nhịp ngựa phi thất và nhĩ tương ứng) chứng tỏ tăng gánh thể tích tâm thất hoặc sự trương giãn bị thương tổn và có thể nghe thấy ở vùng một trong nhị tiếng thất S3 ở mỏm là một tín hiệu phổ biến ở những người trẻ và người có thai. Các dấu hiệu khác về nghe gồm tiếng rít âm sắc cao được phân loại là tiếng clắc. Chúng có thể là tiếng đầu tâm thu và tương ứng với tiếng tống máu (như van động mạch chủ hai mảnh hoặc hẹp van động mạch phổi) hoặc có thể xẩy ra giữa hoặc cuối tâm thu chứng tỏ những thay đổi thoái hóa nhầy ở van hai lá.
Dường như đa dạng tiếng thổi tâm thu chứng tỏ bệnh van tim, thì một tiếng thổi tâm thu ngắn thường khu trú dọc theo bờ trái xương ức hoặc hướng xuống mỏm có thể là vô hại, phản ảnh tăng lưu lượng phổi. Những tiếng thổi vô hại (cơ năng) này đổi mới theo hô hấp, giảm đi ở phong thái đứng thẳng và thường nghe thấy ở những người bé dại. Tiếng thổi tâm thu và toàn tâm thu khi chúng gắn liền với tiếng thứ nhất và kéo dài suốt toàn bộ thì tâm thu hoặc tiếng thổi tống máu khi chúng khởi đầu sau tiếng thứ nhất và kết thúc sau tiếng thứ nhì với đỉnh mạnh nhất ở đầu hoặc giữa kỳ tâm thu. Tiếng thổi toàn tâm thu gặp trong hở van nhì lá nếu chúng nghe tối đa ở mỏm hoặc ở nách và trong hở van ba lá hoặc thông liên thất giả dụ như nghe rõ nhất ở cạnh ức. Tiếng thổi tâm thu động mạch chủ ngắn kèm với yếu tố A2 thường gặp gỡ ở người già khác biệt là tăng huyết áp và ngay cả khi tiếng thổi to vừa phải chúng thường phản ánh tình trạng van dầy (xơ hóa) hơn là hẹp. Sự liên hiệp các tiếng thổi với sự rung có thể sờ thấy được (rung miu) luôn có ý nghĩa lâm sàng như tiếng thổi tâm trương.
Phù ngoại biên
Phù ngoại biên, khác lạ khi xuất hiện cả hai bên và đoàn kết với các triệu chứng khác, có thể chứng tỏ suy tim. Các duyên cớ khác của phù gồm các rối loàn ngoại biên , bệnh gan, thận và tuyến giáp, tích tụ ứ dịch do thuốc (khác lạ là thuốc chẹn dòng canci hoặc thuốc không steroid) hoặc chức năng của ostrogen.